CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA KIẾN TRÚC SƯ NGÔ VIẾT THỤ
- Người viết: Phanblogs@halamp.vn lúc
- Tin tức
- - 0 Bình luận
CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA KIẾN TRÚC SƯ NGÔ VIẾT THỤ
I. TÓM TẮT TIỂU SỬ VÀ CON ĐƯỜNG HỌC VẤN

- Sinh năm 1926, tại Lang Xá, Thừa Thiên Huế, trong một gia đình nhà giáo và Nho học.
- Từ nhỏ đã giỏi Hán Nôm, có năng khiếu thủ công và nghệ thuật.
- Thi đậu Cao đẳng Kiến trúc Đà Lạt, sau đó du học tại Pháp nhờ sự hỗ trợ từ gia đình vợ.
- Tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Quốc gia Paris (D.P.L.G.) năm 1955.
- Đoạt giải Paul Bigot và sau đó Khôi nguyên La Mã - người châu Á đầu tiên và duy nhất đạt được giải này trong lịch sử.
II. NHỮNG DẤU ẤN NGHỆ THUẬT & KIẾN TRÚC
A. Tài năng đa ngành
- Không chỉ là kiến trúc sư mà còn là họa sĩ, điêu khắc gia, nhạc công dân tộc và nhà thơ.
- Có nhiều tác phẩm tranh, điêu khắc và bài viết để lại dấu ấn mạnh mẽ trong giới nghệ thuật.
B. Phong cách thiết kế
- Pha trộn hài hòa giữa kiến trúc cổ điển phương Tây và nét Á Đông truyền thống.
- Luôn chú trọng đến mỹ quan tổng thể, không chấp nhận việc “chắp vá” công trình.
III. CÁC CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC TIÊU BIỂU









Tại miền Nam và miền Trung:
1. Dinh Độc Lập (Hội trường Thống Nhất)
2. Viện nguyên tử Đà Lạt
3. Viện Đại học Huế
4. Chợ Đà Lạt, nhà thờ Phủ Cam, Bảo Lộc, Vĩnh Long
5. Trường ĐH Y khoa, Nông nghiệp Sài Gòn
6. Khách sạn Hương Giang, Century Huế
7. Thương xá Tam Đa, Majestic, khu Innotech,…
8. Quy hoạch Thánh địa La Vang, Việt Nam Quốc Tự,…
9. Ty Thủy lợi Đắk Lắk, Bệnh viện Sông Bé,…
10. Quy hoạch Phố Đông Thượng Hải, Hà Nội, Đà Nẵng, Phú Quốc,…
Ghi chú: Nhiều công trình khác không được liệt kê hết vì số lượng đồ sộ.
IV. TRỞ VỀ PHỤC VỤ TỔ QUỐC

- Sau khi nổi danh ở châu Âu, ông từ chối cơ hội định cư và làm việc tại nước ngoài để về nước theo lời mời của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
- Được mời làm Bộ trưởng Bộ Xây dựng, nhưng ông từ chối vì không hợp vai trò chính khách, chỉ nhận làm cố vấn kiến trúc phủ Tổng thống.
- Thành lập văn phòng thiết kế riêng, tạo ảnh hưởng mạnh đến quy hoạch đô thị và hạ tầng miền Nam trước 1975.
V. HOẠT ĐỘNG SAU 1975
- Trải qua 1 năm cải tạo. Vợ ông mất trong giai đoạn khó khăn năm 1977.
- Tiếp tục tham gia nhiều dự án lớn như: bệnh viện, khách sạn, quy hoạch đô thị Hà Nội, Hải Phòng, thiết kế chùa Trúc Lâm Đà Lạt.
- Là cố vấn cho Hội Kiến trúc sư Việt Nam và TP.HCM nhiều nhiệm kỳ.
- Góp mặt trong tổ chuyên gia tư vấn cho Thủ tướng Võ Văn Kiệt.
VI. NHÂN CÁCH - GIA ĐÌNH - ĐỜI SỐNG RIÊNG
- Sống giản dị, trọng nghĩa tình, không màng danh lợi.
- Người vợ ông - bà Võ Thị Cơ - là người đồng hành âm thầm, hy sinh rất lớn cho sự nghiệp chồng.
- Có 8 người con, trong đó KTS Ngô Viết Nam Sơn theo nghiệp cha và trở thành kiến trúc sư quốc tế thành công.
VII. VINH DANH VÀ DI SẢN


- Là Viện sĩ danh dự của Viện Kiến trúc Hoa Kỳ.
- Tổ chức nhiều triển lãm tại Pháp, Mỹ, Philippines…
- Khi mất (năm 2000), linh cữu ông được dừng trước Dinh Độc Lập - công trình tâm huyết nhất đời ông.
- Hiện mới chỉ có một con đường nhỏ ở Long Biên (Hà Nội) mang tên ông.
- Nhiều người kiến nghị cần đặt tên ông cho các công trình lớn tại Huế, Đà Lạt, TP.HCM, và dựng tượng tôn vinh xứng đáng với tầm vóc và đóng góp của ông.
Ngô Viết Thụ là hình mẫu về một trí thức yêu nước, tài năng và khiêm nhường. Câu chuyện cuộc đời ông là biểu tượng cho:
- Sự vươn lên từ nghèo khó
- Lòng yêu nước sâu sắc
- Tâm huyết cống hiến cho dân tộc bằng tri thức và tài năng
Ngô Viết Nam Sơn, con trai Ngô Viết Thụ
Ngô Viết Nam Sơn Ashui Awards 2019
Con trai của KTS Ngô Viết Thụ – KTS Ngô Viết Nam Sơn cũng là một người nổi tiếng trong giới kiến trúc Việt Nam và thế giới. Ông có định hình phong cách riêng, tuy nhiên có rất nhiều tư tưởng ông học tập từ cha mình. Ông tự hào chia sẻ về người cha đáng kính:
“Thiết kế của KTS Ngô Viết Thụ thể hiện quan niệm kiến trúc Việt Nam hiện đại, không sao chép các chi tiết của kiến trúc cổ điển, nhưng vẫn hài hòa và mang bản sắc văn hóa dân tộc, hoàn toàn đi theo hướng khác với các đóng góp thiết kế dinh của các KTS danh tiếng cùng thời, trong đó đa số hoặc theo xu hướng kiến trúc cổ điển Pháp hoặc mang nặng ảnh hưởng kiến trúc tôn giáo và cung đình.
Ngoài ra, Dinh Thống Nhất đánh dấu sự khởi đầu cho phong cách kiến trúc mang dấu ấn riêng của KTS Ngô Viết Thụ sau này trong các công trình Đại học Nông nghiệp Thủ Đức, Trụ sở Hàng không Việt Nam, Tổ hợp Khách sạn Hương Giang I và II…
Trong các tác phẩm của ông, các yếu tố mỹ thuật và kỹ thuật luôn mang tính đổi mới và sáng tạo, nhưng điều quan trọng hơn, mỗi tác phẩm đều ẩn tàng một bản sắc độc đáo và triết lý sâu sắc.
KTS Ngô Viết Nam Sơn
Khi thiết kế dinh Độc Lập, nhiều người hiểu sai, cho rằng cha tôi thiết kế riêng cho ông Ngô Đình Diệm. Thực ra không phải vậy, ông xây dựng chung cho những vị nguyên thủ quốc gia, chính vì vậy mà khu ở của thủ tướng không làm gì hết.
Ông quan niệm vị trí thủ tướng chỉ là tạm thời. Về mặt phong thuỷ, đa số công trình của các vị vua ngày xưa đều xây dựng theo triết lý bá đạo, tức là làm sao có lợi nhất cho chủ nhân, mà không tính đến chuyện gây hại cho người khác.
Ông áp dụng khoa chiết tự vào thiết kế mặt đứng để nhắc nhở những ai chủ trì tại đó phải có tài đức của một nhà lãnh đạo (chữ Vương, và chữ Tam – tượng trưng cho Nhân, Minh, và Võ đức), giữ vững chủ quyền đất nước (chữ Chủ), đảm bảo tự do ngôn luận của người dân (chữ Khẩu), trung với quốc dân (chữ Trung), và làm sao cho đất nước ngày càng hưng thịnh (chữ Hưng)…
Cha tôi theo quan điểm vương đạo, tức là làm sao cho cộng đồng phát triển tốt, khi cộng đồng phát triển tốt, trong đó sẽ có mình. Nhiều người cho rằng trục chính đi thẳng vào dinh là xấu, nhưng cha tôi vẫn làm, và dùng hồ nước để hoá giải.
Ông cho rằng làm vua thì phải làm gương, phải đứng ra gánh vác, chiếu không ngay, không ngồi. Tôi tự hào về cha, và ảnh hưởng nhiều về phong cách Á Đông kết hợp với kiến trúc cổ điển Pháp trong các công trình kiến trúc của ông.
Ba tôi chỉ dạy cái thần thái – linh hồn trong một tác phẩm. Ba không bao giờ chỉ tôi vẽ cửa làm sao, vẽ cầu thang như thế nào… Ba dạy tôi chí hướng và cách tư duy ý tưởng, chứ không dạy về kỹ thuật, bởi kỹ thuật thì có giới hạn. Tôi hầu như học kỹ thuật ở trường.
Khi hai cha con đi chơi với nhau, khi nhìn thấy một công trình, ba tôi sẽ nói dấu ấn làm nên thần thái của công trình là gì. Điểm này được, điểm này chưa được và tại sao? Ba tôi thường bắt cái tinh thần của một tác phẩm để nói với tôi hơn là đi vào chi tiết kỹ thuật. Bởi vì chi tiết thì qua thời gian có thể thay đổi. Còn tinh thần cốt cách của tác phẩm thì bền lâu hơn.
Càng về sau thì tôi càng thấy cách dạy của ba tôi là đúng. Vì nếu tôi học từ ba cách vẽ kiến trúc thời đó, có lẽ thời nay không còn phù hợp.Vì mỗi thời, mỗi thế hệ có cách diễn đạt, đường hướng và gu thẩm mỹ riêng”.
7 công trình kiến trúc được thiết kế bởi KTS Ngô Viết Thụ
Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt
Năm 1958, chính quyền VNCH đã thành lập Nguyên tử lực cuộc và đến năm 1961 một cơ sở nghiên cứu được thành lập mang tên Trung tâm Nghiên cứu Nguyên tử Đà Lạt. Trung tâm được xây dựng tại một khu vực có diện tích 21 ha ở số 4 đường Nguyên Tử Lực, khởi công xây dựng từ tháng 4-1961 và được hoàn thành vào tháng 12-1962.

Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ cùng các kiến trúc sư phụ tá Nguyễn Mỹ Lộc, Phạm Quỳnh Lân và Vũ Tòng chịu trách nhiệm thiết kế công trình này.
Với tuổi đời tròn 60 năm, hiện nay đây là lò phản ứng hạt nhân duy nhất của Việt Nam nghiên cứu và tạo ra các sản phẩm từ phóng xạ.

Nhà thờ Phủ Cam
Nhà thờ Chính tòa Phủ Cam ở Huế là nhà thờ nổi tiếng và lâu đời nhất tại Huế. Nhà thờ có lịch sử từ năm 1682, khi đó được dựng bằng tranh tre. Đến đầu thế kỷ 20, nhà thờ đã trở thành một công trình bằng đá chắc chắn và khá đồ sộ theo kiến trúc Gothic.
Năm 1960, sau khi Giáo phận Huế được nâng lên hàng Tổng giáo phận và Tổng Giám mục Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục từ Vĩnh Long về nhận chức Tổng Giám mục Huế, ông đã cho phá hủy toàn bộ nhà thờ Phủ Cam cũ và khởi công xây cất Nhà thờ chính tòa mới với đồ án do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thực hiện.

Ðầu năm 1963, nhà thờ bắt đầu được khởi công xây dựng. Trong khi việc xây dựng đang tiến hành thì xảy ra cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963, Tổng Giám mục Ngô Đình Thục lúc đó đang đi công tác ở Roma, vì hoàn cảnh chính trị không trở về Việt Nam, việc xây dựng cũng bị chững lại.
Tuy việc xây dựng vẫn được tiến hành song tiến độ rất chậm chạp, tới năm 1967 nhà thờ mới lên được phần cung thánh. Sự kiện Tết Mậu Thân (1968) đã làm hư hại phần lớn công trình kiến thiết nhà thờ, việc xây dựng đã gặp nhiều trở ngại cho đến tận năm 1975. Sau 1975, do hoàn cảnh, mọi công tác xây dựng vẫn tiếp tục tiến hành rất chậm chạp. Đến tận năm 1995, phần thân nhà thờ về mới cơ bản được hoàn thành.
Năm 1999, để chuẩn bị cho hai ngày 28 và 29 tháng 6 năm 2000, là ngày Tổng Giáo phận Huế cung hiến nhà thờ chính tòa Phủ Cam nhân dịp kỷ niệm 150 năm ngày thành lập Giáo phận Huế (kể từ khi tách rời khỏi Giáo phận Đàng Trong), Tổng giám mục Stêphanô Nguyễn Văn Thể hạ quyết tâm bằng đủ mọi cách phải hoàn thành các trang trí bên trong nhà thờ và hai tháp chuông trước tiền đường. Công trình xây cất đã hoàn tất vào tháng 5 năm 2000.
Như vậy, trải qua 3 đời Giám mục – từ Tổng Giám mục Ngô Đình Thục đến Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền và Tổng Giám mục Nguyễn Như Thể – sau gần 40 năm xây dựng, nhà thờ chính tòa Phủ Cam mới hoàn thành với diện mạo như hiện nay.

Trường Trung học Kiểu mẫu Huế Trường
Trung học Kiểu mẫu Huế là một trong những ngôi trường trung học nổi tiếng nhất ở Huế.

Trường được thành lập năm 1964, thuộc ĐH Sư phạm Huế. Khóa học đầu tiên của trường khai giảng vào ngày 20/9/1964 với 8 lớp học, 320 học sinh và 24 giáo sư.
Ngay sau sự ra đời của trường Trung học Kiểu mẫu Huế, năm 1965, trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức cũng khai giảng khóa đầu. Năm sau nữa, 1966, trường Trung học Kiểu mẫu Cần Thơ được thành lập. Sự ra đời của 3 ngôi trường tạo ra mô hình trường học kiểu mẫu thời bấy giờ.
Tồn tại cho đến năm học 1975-1976, Trung học Kiểu mẫu Huế chuyển tên thành Trung học Lê Lợi. Đến mùa hè 1977, trường giải thể sau khi đào tạo 13 khóa học sinh. Cơ sở của trường thuộc về ĐH Sư phạm Huế ngày nay.
Giảng đường Phượng Vỹ – Đại học Nông Nghiệp
Đại học Nông Lâm ở Sài Gòn ngày nay tiền thân là Đại học Nông Nghiệp Sài Gòn, cơ sở ở Thủ Đức được Ngô Viết Thụ thiết kế vào đầu thập niên 1970. Khu chính của trường được gọi là Giảng đường Phượng Vỹ, hình chữ U.
Kiến trúc mặt ngoài dùng đường nét thẳng, mạnh mẽ, vật liệu bằng đá rửa, bên trong sàn dùng đá mài trắng, tường cách âm và ốp chân lambri gỗ.

Trung tâm Giáo dục Y Khoa – Đại học Y Khoa Sài Gòn
Trung tâm Giáo dục Y khoa được khởi công năm 1962 trên Đại lộ Hồng Bàng, hoàn tất năm 1966 với kinh phí xây dựng là 4.5 triệu USD.

Công trình này được một nhóm kiến trúc sư Mỹ Việt thiết kế, trong đó Công ty CRS (Houston) là trưởng nhóm Hoa Kỳ, và Văn phòng tư vấn kiến trúc của KTS Ngô Viết Thụ là trưởng nhóm Việt Nam.
Đây là cơ sở của Trường đại học Y khoa Sài Gòn thời gian 1966 đến 1975. Sau năm 1975, trường ĐH Y khoa Sài Gòn đổi tên thành Đại Học Y Dược.

Chợ Đà Lạt
Chợ Đà Lạt (chợ mới) được khởi công từ năm 1958 theo đồ án thiết kế ban đầu của KTS Nguyễn Duy Đức, khi đó KTS Ngô Viết Thụ vẫn chưa về nước.
Đến năm 1959 có ý kiến cho rang cần có sự gắn kết giữa khu Chợ Mới và Chợ Cũ nên KTS Ngô Viết Thụ vừa mới từ Pháp trở về được giao trọng trách này.

Thiết kế cũ của chợ vẫn được hoàn tất, sau đó KTS sửa đổi, thêm khu nhà phía sau, thêm cây cầu đi bộ nổi tiếng bắc từ khu Hòa Bình qua tầng lầu của chợ mới:
Dinh Độc Lập
Nhắc đến kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, không thể nào không nhắc đến công trình lớn nhất trong sự nghiệp của ông, đó là Dinh Độc Lập.
Tiền thân của Dinh Độc Lập là dinh toàn quyền Đông Dương hay còn gọi là Dinh Norodom. Năm 1962, Tổng thống VNCH lúc đó là ông Ngô Đình Diệm đã quyết phá bỏ nó để thay vào đó một thiết kế hiện đại và có nét dân tộc.

Trang trí mặt tiền được lấy từ hình ảnh đốt tre, có bố cục lấy cảm hứng từ một số chữ Nho. Ngoài ra, các công nghệ và vật liệu đương đại tiên tiến nhất thời bấy giờ đều được sử dụng vào công trình này như bê tông cốt thép… Về cơ bản, công trình này đã loại bỏ hoàn toàn hình bóng của kiến trúc thuộc địa cũ kiểu Pháp.
Dinh Độc Lập mới rộng 4.500 m2, diện tích sử dụng 20.000 m2, gồm 3 tầng chính, sân thượng, 2 gác lửng, tầng nền, 2 tầng hầm và một sân thượng cho máy bay trực thăng. Hơn 100 căn phòng của dinh được trang trí theo phong cách khác nhau tùy theo mục đích sử dụng bao gồm các phòng khánh tiết, phòng họp hội đồng nội các, phòng làm việc của Tổng thống và của Phó tổng thống, phòng trình ủy nhiệm thư, phòng đại yến…
Dinh cao 26m, tọa lạc trong khuôn viên rợp bóng cây. Từ giữa những năm 1960, đây là công trình có quy mô lớn nhất miền Nam và có chi phí xây dựng cao nhất (150.000 lượng vàng). Mặt tiền dinh được trang trí cách điệu các đốt mành trúc phỏng theo phong cách các bức mành của các ngôi nhà Việt và họa tiết các ngôi chùa cổ tại Việt Nam. Các phòng được trang trí nhiều tác phẩm non sông cẩm tú, tranh sơn mài, tranh sơn dầu.
Khi thiết kế, KTS Ngô Viết Thụ muốn tìm một ý nghĩa văn hóa cho công trình nên mọi sự xếp đặt từ bên trong nội thất cho đến tiền diện bên ngoài, tất cả đều tượng trưng cho triết lý cổ truyền, nghi lễ phương Đông và cá tính của dân tộc, kết hợp hài hoà với nghệ thuật kiến trúc hiện đại.
Toàn thể bình diện của dinh làm thành hình chữ “Cát”, có nghĩa là tốt lành, may mắn. Vẻ đẹp kiến trúc của dinh còn được thể hiện bởi bức rèm hoa đá mang hình dáng những đốt trúc thanh tao bao xung quanh tầng 2.
Trong dinh, tất cả các đường nét kiến trúc đều dùng đường ngay sổ thẳng.

Trên đây là 7 công trình kiến trúc đồ sộ do KTS tài ba Ngô Viết Thụ thiết kế, như là một di sản cho những thế trẻ noi theo và học hỏi.



Viết bình luận